Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

Những nội quy cơ bản về đuờng bộ giao thông vận tải

Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc hoạt động, chính sách phát triển, quy hoạch giao thông vận tải đường bộ; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ và các hành vi bị nghiêm cấm.
 
So với Luật Giao thông Đường bộ năm 2001 (Luật năm 2001), Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 quy định rõ hơn về phạm vi điều chỉnh theo hướng liệt kê tên Chương để thể hiện đầy đủ các lĩnh vực điều chỉnh của Dự thảo Luật (không chỉ có vấn đề an toàn giao thông đường bộ mà còn quản lý vận tải, phương tiện giao thông đường bộ, người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, đầu tư, xây dựng, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông), đồng thời quy định rõ và bổ sung một số nguyên tắc trong hoạt động giao thông đường bộ cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh toàn diện hoạt động giao thông vận tải đường bộ.
 
Một số thay đổi cơ bản ở Chương này là nhiều từ ngữ mới được giải thích tại Điều 3, đặc biệt khái niệm "đất của đường bộ" có sự thay đổi về cơ bản, không chỉ là "phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng" như quy định tại Luật năm 2001, mà còn thêm "phần đất dọc hai bên đường bộ để quản lý bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ, như vậy đã mở rộng hơn so với quy định của Luật năm 2001. Bên cạnh đó, một số khái niệm cũng có những điểm mới cần chú ý như khái niệm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được bổ sung đối tượng là “rơmoóc hoặc sơmi rơmoóc được kéo bởi xe ôtô, máy kéo" và "xe máy điện", khái niệm "Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ" được bổ sung đối tượng là xe đạp máy" và xe lăn dùng cho người khuyết tật".
 
Đối với các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8), Luật cũng có quy định chặt chẽ hơn đối với hành vi sử dụng đồ uống có cồn (rượu, bia) của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông, cụ thể: nghiêm cấm người "điều khiển xe ôtô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng có cồn", còn đối với người điều khiển xe môtô, xe gắn máy thì nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở không được vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở". Như vậy, với những đối tượng điều khiển ôtô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường, do mức độ nguy hiểm cao hơn nên Luật quy định nghiêm cấm sử dụng đồ uống có cồn (rượu, bia...), đối với người điều khiển xe môtô, xe gắn máy trên đường, tuy Luật không cấm nhưng quy định nồng độ cồn thấp hơn so với quy định của Luật năm 2001 và là mức 35 nước trên thế giới áp dụng.
 
Chương II. Quy tắc giao thông đường bộ, gồm 30 Điều.
 
Chương này quy định về quy tắc giao thông đường bộ (gồm hệ thống báo hiệu đường bộ; chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ xe và khoảng cách giữa các xe; sử dụng làn đường; vượt xe; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đường phố; xếp hàng hóa trên phương tiện giao thông đường bộ; trường hợp chở người trên xe ôtô chở hàng; quyền ưu tiên của một số loại xe; qua phà, qua cầu phao; nhường đường tại nơi đường giao nhau; quy tắc đi qua đảo giao thông; đi trên đoạn đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; giao thông trên đường cao tốc, giao thông trong hầm đường bộ; tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ; xe kéo xe và xe kéo rơmoóc; người điều khiển, người ngồi trên xe môtô, xe gắn máy, xe đạp, xe thô sơ khác; người đi bộ, người tàn tật, người già yếu tham gia giao thông; người dẫn dắt súc vật đi trên đường bộ; sử dụng đường phố và các hoạt động khác trên đường phố; tổ chức giao thông và điều khiển giao thông, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra tai nạn giao thông).
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ bổ sung một số quy định về quy tắc giao thông đường bộ cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, bảo đảm an toàn giao thông như quy định các đối tượng không được đi vào đường cao tốc (gồm người đi bộ, xe thô sơ, xe gắn máy, xe môtô và máy kéo; xe máy chuyên dùng có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h); quy định cụ thể về độ tuổi của trẻ em được chở thêm trên xe môtô, xe gắn máy là dưới 14 tuổi và xe đạp là dưới 7 tuổi (Luật năm 2001 không quy định độ tuổi cụ thể).
 
Điểm đáng chú ý trong Chương này là ngoài quy định người điều khiển, người ngồi trên xe môtô hai bánh, xe môtô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách, Luật Giao thông Đường bộ còn bổ sung quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người ngồi trên xe đạp máy.
 
Chương III. Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, gồm 14 Điều.
 
Chương này quy định về phân loại đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kỹ thuật đường bộ; quỹ đất dành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phạm vi đất dành cho đường bộ; bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình đường bộ; công trình báo hiệu đường bộ; đầu tư xây dựng, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; thi công công trình trên đường bộ đang khai thác; quản lý, bảo trì đường bộ; nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường bộ; xây dựng đoạn đường giao nhau cùng mức giữa đường bộ với đường sắt; bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí đường bộ; bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
 
So với luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 bổ sung quy định cụ thể việc phân loại đường bộ, đồng thời quy định rõ thẩm quyền phân loại và điều chỉnh các hệ thống đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải (đối với quốc lộ) và của Ủy ban nhân dân (đối với đường địa phương).
 
Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 cũng quy định tỷ lệ quỹ đất giao thông đô thị so với đất xây dựng đô thị phải bảo đảm từ 16% đến 26% để đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của giao thông đô thị, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực.
 
Về vấn đề bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình đường bộ, Luật bổ sung quy định về công tác thẩm định an toàn giao thông đối với công trình đường bộ, việc xây dựng công trình bảo đảm giao thông cho người đi bộ, người khuyết tật, quy định cụ thể việc đấu nối, việc xây dựng đường gom để bảo đảm an toàn giao thông cho hệ thống quốc lộ. Quy định chặt chẽ đối với việc sử dụng, quản lý công trình báo hiệu đường bộ.
 
Luật cũng bổ sung quy định ràng buộc trách nhiệm của đơn vị thi công công trình trên đường bộ đang khai thác phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhằm nâng cao trách nhiệm của đơn vị thi công trên đường bộ trong việc giữ gìn trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường trong quá trình thi công.
 
Đối với công tác quản lý, bảo trì đường bộ, luật đã làm rõ khái niệm bảo trì đường bộ, quy định cụ thể hơn về nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường bộ, đặc biệt là việc hình thành Quỹ bảo trì đường bộ để quản lý, bảo trì hệ thống quốc lộ và đường địa phương nhằm mục đích bảo đảm kinh phí, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo trì đường bộ, tạo cơ sở pháp lý để huy động các nguồn lực cho việc bảo trì hệ thống đường bộ, từ đó góp phần tiết kiệm chi phí đầu tư, xây dựng mới hệ thống đường bộ.
 
Chương IV. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ, gồm 5 Điều.
 
Chương này quy định về điều kiện tham gia giao thông đường bộ của các loại phương tiện, cấp, thu hồi đăng ký và biển số xe cơ giới, quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ.
 
So với Luật năm 2001, chương này được sửa đổi một số nội dung cho phù hợp với Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
 
Bên cạnh đó, để phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và một số Hiệp định Việt Nam đã ký kết cho phép xe tay lái bên phải của một số nước vào Việt Nam, đồng thời để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của phát triển du lịch, Luật Giao thông Đường bộ cũng bổ sung quy định về việc cho phép xe ôtô của người nước ngoài đăng ký tại nước ngoài có tay lái bên phải tham gia giao thông tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.
 
Nhằm tạo sự thống nhất trong công tác quản lý các loại xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, nâng cao vai trò của Bộ quản lý chuyên ngành, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 cũng giao thẩm quyền quy định và tổ chức việc thu hồi đăng ký, biển số các loại xe cơ giới cho Bộ Công an, thu hồi đăng ký, biển số xe máy chuyên dùng cho Bộ Giao thông Vận tải, bảo đảm nguyên tắc cơ quan nào cấp thì cơ quan đó thu hồi.
 
Chương V. Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, gồm 6 Điều.
 
Chương này quy định về điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông, giấy phép lái xe, tuổi và sức khỏe của người lái xe, đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ đã bổ sung quy định về các loại giấy tờ mà người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải mang theo khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, cụ thể người lái xe phải mang Đăng ký xe, Giấy phép lái xe (đối với người điều khiển xe ôtô, xe môtô), Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với người điều khiển ôtô), Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; người điều khiển xe máy chuyên dùng phải mang theo Đăng ký xe, Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường. Quy định này nhằm tăng cường kiểm soát sự tuân thủ pháp luật của người tham gia giao thông, bảo đảm các quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm túc.
 
Đối với quy định về người lái xe, Luật Giao thông Đường bộ quy định nâng độ tuổi tối thiểu của người lái xe ôtô chở người từ 10 - 30 chỗ ngồi tăng từ 21 tuổi (theo Luật năm 2001) lên là 24 tuổi, tuổi tối thiểu của người lái xe ôtô chở người trên 30 chỗ ngồi tăng từ 25 tuổi (theo Luật năm 2001) lên là 27 tuổi và quy định nâng hạng giấy phép lái xe đối với người lái xe tải kéo sơmi rơmoóc, nâng từ giấy phép lái xe hạng C (21 tuổi) lên giấy phép lái xe hạng FC (24 tuổi).
 
Chương VI. Vận tải đường bộ, gồm 20 Điều
 
Chương này quy định về hoạt động vận tải đường bộ, kinh doanh vận tải bằng xe ôtô; quyền và nghĩa vụ của người kinh doanh vận tải, người lái xe và nhân viên phục vụ trên ôtô vận tải hành khách, hành khách, người thuê vận tải hàng hoá, người nhận hàng; vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng; vận chuyển động vật sống; vận chuyển hàng nguy hiểm; hoạt động vận tải đường bộ trong đô thị; vận tải đa phương thức; dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ; tổ chức, hoạt động của bến xe ôtô, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 đã phân biệt, làm rõ hoạt động vận tải đường bộ và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, do đó chia Chương này thành 2 Mục: Hoạt động vận tải đường bộ và Dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ. Quy định như vậy tạo thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước đối với hai loại hình dịch vụ này.
 
Luật cũng đã bổ sung quy định về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, quy định chặt chẽ điều kiện kinh doanh vận tải bằng ôtô, đặc biệt quy định “phương tiện kinh doanh vận tải phải gắn thiết bị giám sát hành trình của xe theo quy định của Chính phủ”. Đây là quy định mang tính đột phá trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý hoạt động kinh doanh vận tải. Căn cứ điều luật này, Chính phủ sẽ có quy định cụ thể phạm vi, đối tượng, lộ trình thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế.
 
Không chỉ quy định chi tiết quyền, nghĩa vụ của từng đối tượng tham gia trong hoạt động vận tải đường bộ (người kinh doanh vận tải, người lái xe và nhân viên phục vụ trên ôtô vận tải hành khách, hành khách, người thuê vận tải, người nhận hàng), Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 còn quy định ràng buộc trách nhiệm của người kinh doanh vận tải "Chịu trách nhiệm về hậu quả mà người làm công, người đại diện gây ra do thực hiện yêu cầu của người kinh doanh vận tải trái quy định của Luật này".
 
Chương VII. Quản lý Nhà nước, gồm 4 Điều.
 
Chương này quy định nội dung quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ, trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ; thanh tra đường bộ; tuần tra, kiểm soát của cảnh sát giao thông đường bộ.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 bổ sung một số nội dung quản lý Nhà nước về vận tải đường bộ như việc quản lý hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải, tổ chức cứu nạn giao thông đường bộ, đồng thời phân định rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan.
 
Luật cũng quy định bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra đường bộ để nâng cao vai trò, hiệu quả của lực lượng thanh tra, kịp thời ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật.
 
Điểm đáng chú ý trong Chương này quy định việc huy động các lực lượng cảnh sát khác và công an xã phối hợp với cảnh sát giao thông đường bộ tham gia tuần tra, kiểm soát trật tự an toàn giao thông đường bộ trong trường hợp cần thiết theo quy định của Chính phủ. Quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tế, khi tình hình an toàn giao thông diễn biến phức tạp, lực lượng cảnh sát giao thông còn mỏng, yêu cầu bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn đòi hỏi ngày càng cao, việc huy động các lực lượng khác tham gia hỗ trợ cảnh sát giao thông là cần thiết.
 
Với quan điểm đổi mới trong việc xây dựng luật, so với Luật năm 200l, Luật Giao thông Đường bộ đã bỏ chương khen thưởng, xử lý vi phạm, đồng thời bỏ một số diều đã được quy định cụ thể tại các Luật khác như quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra (đã được quy định tại Luật Thanh tra), quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện (đã được quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo).
 
Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 2 Điều.
 
Chương này quy định về hiệu lực thi hành của Luật.
xem thêm : dinh vi xe may, dinh vi oto, dinh vi xe hoi

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Copyright © . THIẾT BỊ ĐỊNH VỊ - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger