Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

Từ ngày 1/7 xử phạt xe không lắp đặt thiết bị định vị

- 0 nhận xét
Thời điểm xử phạt đối với xe ô tô chưa lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (hộp đen) đã được “kéo giãn” đến ngày 1/7/2013. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp kinh doanh vận tải có thể thờ ơ với việc lắp đặt thiết bị định vị này vì lộ trình lắp đặt vẫn phải tuân theo quy định tại Nghị định 91. Cơ quan quản lý vận tải sẽ kiểm soát việc này thông qua việc cấp phép kinh doanh vận tải.
Không lùi thời điểm lắp đặt
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 33 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34 về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Theo Nghị định mới, xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định có cự ly từ 500 km trở lên, xe kinh doanh vận chuyển khách du lịch, xe ô tô kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container không lắp đặt hộp đen sẽ bị xử phạt từ ngày 1/7/2013.
2 đơn vị được chỉ định thực hiện đo, thử nghiệm TBGSHT
Bộ GTVT đã có Quyết định số 1087/QĐ-BGTVT ngày 25/5/2011 về việc chỉ định Viện Đo lường Việt Nam và Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng 1 thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thực hiện việc đo, thử nghiệm TBGSHT của xe ô tô phục vụ cho công tác đánh giá công bố hợp quy theo QCVN 31: 2011/BGTVT của Bộ GTVT.
Việc đo, thử nghiệm để công bố hợp quy đối với TBGSHT của xe ô tô được thực hiện theo Quyết định số 1086/QĐ-BGTVT ngày 25/5/2011 của Bộ GTVT.
Dù thời điểm xử phạt lùi lại 2 năm song việc triển khai lắp hộp đen vẫn bắt đầu từ 1/7/2011. Theo đúng tiến độ, đến 1/7/2012, tất cả xe kinh doanh vận tải khách, vận tải hàng hoá bằng container sẽ phải lắp và duy trì tốt tình trạng kỹ thuật của thiết bị giám sát hành trình.
Theo số liệu của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, cả nước hiện có khoảng 1.500 doanh nghiệp, HTX vận tải với hơn 16 nghìn phương tiện thuộc diện phải lắp đặt hộp đen trước ngày 1/7/2011.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng - Chủ tịch Hiệp hội vận tải ô tô Việt Nam cho rằng, việc lùi thời gian xử phạt là hợp lý. Bởi như vậy sẽ có đủ thời gian tuyên truyền, đủ thời gian sản xuất thiết bị hợp quy và đủ thời gian cho doanh nghiệp vận tải chuẩn bị. Việc lắp hộp đen lên xe ô tô cần có thời gian kiểm nghiệm, thẩm định chất lượng của thiết bị.
Ông Hùng cho biết đến nay dù chưa có đơn vị cung cấp thiết bị nào có dấu hợp quy trên sản phẩm nhưng họ đã đến “chào hàng” các thành viên của Hiệp hội khá nhiều.
Ông Tạ Công Thuận - Giám đốc Công ty Vinh Hiển, doanh nghiệp sản xuất lắp đặt TBGSHT cũng cho rằng, chưa xử phạt thời điểm này là hợp lý cho cả doanh nghiệp cung cấp thiết bị lẫn doanh nghiệp vận tải.
Thử nghiệm thiết bị giám sát hành trình trên xe khách
Đây là thời điểm các doanh nghiệp vận tải có thời gian chọn lựa sản phẩm, nhà cung cấp thỏa mãn yêu cầu của mình. “Thông thường, chúng tôi cho doanh nghiệp vận tải chạy thử nghiệm thiết bị trong vòng 3 tháng trước khi quyết định mua hay không”, ông Thuận nói.
Đại diện một doanh nghiệp cung cấp hộp đen ở Hà Nội cho biết, sau khi các Thông tư, Quyết định của Bộ GTVT về gắn dấu hợp quy cho thiết bị giám sát hành trình được ban hành, nếu nhanh thì đến cuối tháng 6, đầu tháng 7, các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp TBGSHT mới có thể đưa ra thị trường sản phẩm hợp quy. Do đó, có thêm thời gian, doanh nghiệp sẽ có sự đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng hơn, chất lượng thiết bị sẽ tốt hơn.
Thế nào là hộp đen hợp quy?
Theo Quyết định mới nhất của Bộ GTVT hướng dẫn thực hiện Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia (QCVN 31: 2011/BGTVT) về thiết bị giám sát hành trình của xe ô tô, việc xác nhận thiết bị “hợp quy” được phân làm 2 loại.
Lộ trình lắp hộp đen với xe kinh doanh vận tải
Đến ngày 1/7/2011: Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định có cự ly từ 500 km trở lên, xe kinh doanh vận chuyển khách du lịch, xe ô tô kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container phải gắn TBGSHT.
Đến ngày 1/1/2012: Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định có cự ly từ 300 km trở lên, xe buýt, xe kinh doanh vận tải hành khách hợp đồng phải gắn TBGSHT.
Đến ngày 1/7/2012: Xe ô tô kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định, xe buýt, xe kinh doanh vận tải hành khách hợp đồng, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, xe kinh doanh vận tải hàng hóa bằng container phải lắp đặt và duy trì tình trạng kỹ thuật tốt của TBGSHT.
(Theo Nghị định 91 về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô).
Thứ nhất, đối với thiết bị sản xuất, lắp ráp trong nước được tiến hành thử nghiệm mẫu điển hình, đại diện cho một kiểu, loại cụ thể của thiết bị sẽ được sản xuất, lắp ráp theo cùng một thiết kế, trong cùng một điều kiện và sử dụng cùng loại nguyên vật liệu.
Thứ hai, đối với các lô hàng nhập khẩu, sẽ tiến hành thử nghiệm đánh giá sự phù hợp mẫu đại diện của lô hàng theo các chỉ tiêu kỹ thuật quy định tại QCVN 31: 2011/BGTVT. Mẫu thử nghiệm được lấy ngẫu nhiên trong số các thiết bị thuộc lô hàng nhập khẩu hoặc lựa chọn ngẫu nhiên theo số sê-ri của thiết bị trong danh mục đơn hàng nhập khẩu.
Theo quy định, phần cứng hộp đen phải đảm bảo có bộ vi xử lý, bộ phận ghi, lưu giữ, truyền phát dữ liệu, bộ phận thu nhận thông tin lái xe; sử dụng đồng hồ thời gian thực, đảm bảo khi mất tín hiệu GPS thì vẫn có đồng hồ thời gian hoạt động bình thường; thiết bị phải kết nối được với máy tính hoặc một màn hình hiển thị các kết quả đo (vận tốc, số lần mở cửa,...).
Phần mềm của thiết bị phải có khả năng tìm, truy cập, lưu trữ, thống kê, lập bảng, biểu đồ... đối với các thông tin tối thiểu liên quan trong quá trình khai thác, vận hành của xe; đối với thông tin nhận dạng của xe và lái xe, hệ thống phần mềm chỉ có thể truy cập mà không thể thay đổi hoặc xóa bỏ...
Các doanh nghiệp vận tải khi lắp đặt hộp đen và cảm biến nhiên liệu cần chú ý xem thiết bị đó đã được đóng dấu hợp quy hay chưa. Dấu hợp quy (CR) có thể được in, đúc trực tiếp trên sản phẩm, trên nhãn hàng hóa (đối với thiết bị được sản xuất lắp ráp trong nước) hoặc nhãn phụ (đối với hàng nhập khẩu) ở vị trí dễ thấy, không thể tẩy xóa, đồng thời được in trong tài liệu kỹ thuật kèm theo. Dấu hợp quy phải được thể hiện cùng một màu, có thể được phóng to hoặc thu nhỏ nhưng phải đảm bảo đúng tỷ lệ và nhận biết được bằng mắt thường.
Hộp đen “cũ” vẫn có thể sử dụng
Theo đại diện Vụ Khoa học Công nghệ Bộ GTVT, những doanh nghiệp kinh doanh vận tải đã lắp đặt hộp đen chưa có tem hợp quy theo quy định cần yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thiết bị nâng cấp, “tích hợp” đầy đủ các tính năng như yêu cầu của Nghị định 91/2009/NĐ-CP để đủ tiêu chuẩn được công bố hợp quy. Hiện nay, hầu hết hộp đen đang được doanh nghiệp sử dụng chưa đạt yêu cầu của cơ quan quản lý nhưng những thiết bị này có thể tiếp tục sử dụng sau khi nâng cấp. Theo tìm hiểu của người viết, giá thành nâng cấp hộp đen vào khoảng 300 - 700 nghìn đồng/thiết bị, tùy từng tính năng sẽ được tích hợp thêm.
[Continue reading...]

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2014

Những nội quy cơ bản về đuờng bộ giao thông vận tải

- 0 nhận xét
Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên tắc hoạt động, chính sách phát triển, quy hoạch giao thông vận tải đường bộ; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ và các hành vi bị nghiêm cấm.
 
So với Luật Giao thông Đường bộ năm 2001 (Luật năm 2001), Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 quy định rõ hơn về phạm vi điều chỉnh theo hướng liệt kê tên Chương để thể hiện đầy đủ các lĩnh vực điều chỉnh của Dự thảo Luật (không chỉ có vấn đề an toàn giao thông đường bộ mà còn quản lý vận tải, phương tiện giao thông đường bộ, người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, đầu tư, xây dựng, khai thác, bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông), đồng thời quy định rõ và bổ sung một số nguyên tắc trong hoạt động giao thông đường bộ cho phù hợp với phạm vi điều chỉnh toàn diện hoạt động giao thông vận tải đường bộ.
 
Một số thay đổi cơ bản ở Chương này là nhiều từ ngữ mới được giải thích tại Điều 3, đặc biệt khái niệm "đất của đường bộ" có sự thay đổi về cơ bản, không chỉ là "phần đất trên đó công trình đường bộ được xây dựng" như quy định tại Luật năm 2001, mà còn thêm "phần đất dọc hai bên đường bộ để quản lý bảo trì, bảo vệ công trình đường bộ, như vậy đã mở rộng hơn so với quy định của Luật năm 2001. Bên cạnh đó, một số khái niệm cũng có những điểm mới cần chú ý như khái niệm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ được bổ sung đối tượng là “rơmoóc hoặc sơmi rơmoóc được kéo bởi xe ôtô, máy kéo" và "xe máy điện", khái niệm "Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ" được bổ sung đối tượng là xe đạp máy" và xe lăn dùng cho người khuyết tật".
 
Đối với các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8), Luật cũng có quy định chặt chẽ hơn đối với hành vi sử dụng đồ uống có cồn (rượu, bia) của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông, cụ thể: nghiêm cấm người "điều khiển xe ôtô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng có cồn", còn đối với người điều khiển xe môtô, xe gắn máy thì nồng độ cồn trong máu hoặc trong hơi thở không được vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở". Như vậy, với những đối tượng điều khiển ôtô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường, do mức độ nguy hiểm cao hơn nên Luật quy định nghiêm cấm sử dụng đồ uống có cồn (rượu, bia...), đối với người điều khiển xe môtô, xe gắn máy trên đường, tuy Luật không cấm nhưng quy định nồng độ cồn thấp hơn so với quy định của Luật năm 2001 và là mức 35 nước trên thế giới áp dụng.
 
Chương II. Quy tắc giao thông đường bộ, gồm 30 Điều.
 
Chương này quy định về quy tắc giao thông đường bộ (gồm hệ thống báo hiệu đường bộ; chấp hành báo hiệu đường bộ; tốc độ xe và khoảng cách giữa các xe; sử dụng làn đường; vượt xe; chuyển hướng xe; lùi xe; tránh xe đi ngược chiều; dừng xe, đỗ xe trên đường bộ, đường phố; xếp hàng hóa trên phương tiện giao thông đường bộ; trường hợp chở người trên xe ôtô chở hàng; quyền ưu tiên của một số loại xe; qua phà, qua cầu phao; nhường đường tại nơi đường giao nhau; quy tắc đi qua đảo giao thông; đi trên đoạn đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; giao thông trên đường cao tốc, giao thông trong hầm đường bộ; tải trọng và khổ giới hạn của đường bộ; xe kéo xe và xe kéo rơmoóc; người điều khiển, người ngồi trên xe môtô, xe gắn máy, xe đạp, xe thô sơ khác; người đi bộ, người tàn tật, người già yếu tham gia giao thông; người dẫn dắt súc vật đi trên đường bộ; sử dụng đường phố và các hoạt động khác trên đường phố; tổ chức giao thông và điều khiển giao thông, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra tai nạn giao thông).
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ bổ sung một số quy định về quy tắc giao thông đường bộ cho phù hợp với tình hình phát triển của xã hội, bảo đảm an toàn giao thông như quy định các đối tượng không được đi vào đường cao tốc (gồm người đi bộ, xe thô sơ, xe gắn máy, xe môtô và máy kéo; xe máy chuyên dùng có tốc độ thiết kế nhỏ hơn 70km/h); quy định cụ thể về độ tuổi của trẻ em được chở thêm trên xe môtô, xe gắn máy là dưới 14 tuổi và xe đạp là dưới 7 tuổi (Luật năm 2001 không quy định độ tuổi cụ thể).
 
Điểm đáng chú ý trong Chương này là ngoài quy định người điều khiển, người ngồi trên xe môtô hai bánh, xe môtô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách, Luật Giao thông Đường bộ còn bổ sung quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm đối với người điều khiển, người ngồi trên xe đạp máy.
 
Chương III. Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, gồm 14 Điều.
 
Chương này quy định về phân loại đường bộ; đặt tên, số hiệu đường bộ; tiêu chuẩn kỹ thuật đường bộ; quỹ đất dành cho kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, phạm vi đất dành cho đường bộ; bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình đường bộ; công trình báo hiệu đường bộ; đầu tư xây dựng, khai thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; thi công công trình trên đường bộ đang khai thác; quản lý, bảo trì đường bộ; nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường bộ; xây dựng đoạn đường giao nhau cùng mức giữa đường bộ với đường sắt; bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, trạm kiểm tra tải trọng xe, trạm thu phí đường bộ; bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
 
So với luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 bổ sung quy định cụ thể việc phân loại đường bộ, đồng thời quy định rõ thẩm quyền phân loại và điều chỉnh các hệ thống đường bộ của Bộ Giao thông Vận tải (đối với quốc lộ) và của Ủy ban nhân dân (đối với đường địa phương).
 
Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 cũng quy định tỷ lệ quỹ đất giao thông đô thị so với đất xây dựng đô thị phải bảo đảm từ 16% đến 26% để đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của giao thông đô thị, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực.
 
Về vấn đề bảo đảm yêu cầu kỹ thuật và an toàn giao thông của công trình đường bộ, Luật bổ sung quy định về công tác thẩm định an toàn giao thông đối với công trình đường bộ, việc xây dựng công trình bảo đảm giao thông cho người đi bộ, người khuyết tật, quy định cụ thể việc đấu nối, việc xây dựng đường gom để bảo đảm an toàn giao thông cho hệ thống quốc lộ. Quy định chặt chẽ đối với việc sử dụng, quản lý công trình báo hiệu đường bộ.
 
Luật cũng bổ sung quy định ràng buộc trách nhiệm của đơn vị thi công công trình trên đường bộ đang khai thác phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhằm nâng cao trách nhiệm của đơn vị thi công trên đường bộ trong việc giữ gìn trật tự an toàn giao thông, vệ sinh môi trường trong quá trình thi công.
 
Đối với công tác quản lý, bảo trì đường bộ, luật đã làm rõ khái niệm bảo trì đường bộ, quy định cụ thể hơn về nguồn tài chính cho quản lý, bảo trì đường bộ, đặc biệt là việc hình thành Quỹ bảo trì đường bộ để quản lý, bảo trì hệ thống quốc lộ và đường địa phương nhằm mục đích bảo đảm kinh phí, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo trì đường bộ, tạo cơ sở pháp lý để huy động các nguồn lực cho việc bảo trì hệ thống đường bộ, từ đó góp phần tiết kiệm chi phí đầu tư, xây dựng mới hệ thống đường bộ.
 
Chương IV. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ, gồm 5 Điều.
 
Chương này quy định về điều kiện tham gia giao thông đường bộ của các loại phương tiện, cấp, thu hồi đăng ký và biển số xe cơ giới, quy định về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ.
 
So với Luật năm 2001, chương này được sửa đổi một số nội dung cho phù hợp với Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
 
Bên cạnh đó, để phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và một số Hiệp định Việt Nam đã ký kết cho phép xe tay lái bên phải của một số nước vào Việt Nam, đồng thời để đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của phát triển du lịch, Luật Giao thông Đường bộ cũng bổ sung quy định về việc cho phép xe ôtô của người nước ngoài đăng ký tại nước ngoài có tay lái bên phải tham gia giao thông tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.
 
Nhằm tạo sự thống nhất trong công tác quản lý các loại xe cơ giới, xe máy chuyên dùng, nâng cao vai trò của Bộ quản lý chuyên ngành, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 cũng giao thẩm quyền quy định và tổ chức việc thu hồi đăng ký, biển số các loại xe cơ giới cho Bộ Công an, thu hồi đăng ký, biển số xe máy chuyên dùng cho Bộ Giao thông Vận tải, bảo đảm nguyên tắc cơ quan nào cấp thì cơ quan đó thu hồi.
 
Chương V. Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, gồm 6 Điều.
 
Chương này quy định về điều kiện của người điều khiển phương tiện tham gia giao thông, giấy phép lái xe, tuổi và sức khỏe của người lái xe, đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ đã bổ sung quy định về các loại giấy tờ mà người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải mang theo khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, cụ thể người lái xe phải mang Đăng ký xe, Giấy phép lái xe (đối với người điều khiển xe ôtô, xe môtô), Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với người điều khiển ôtô), Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; người điều khiển xe máy chuyên dùng phải mang theo Đăng ký xe, Chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường. Quy định này nhằm tăng cường kiểm soát sự tuân thủ pháp luật của người tham gia giao thông, bảo đảm các quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm túc.
 
Đối với quy định về người lái xe, Luật Giao thông Đường bộ quy định nâng độ tuổi tối thiểu của người lái xe ôtô chở người từ 10 - 30 chỗ ngồi tăng từ 21 tuổi (theo Luật năm 2001) lên là 24 tuổi, tuổi tối thiểu của người lái xe ôtô chở người trên 30 chỗ ngồi tăng từ 25 tuổi (theo Luật năm 2001) lên là 27 tuổi và quy định nâng hạng giấy phép lái xe đối với người lái xe tải kéo sơmi rơmoóc, nâng từ giấy phép lái xe hạng C (21 tuổi) lên giấy phép lái xe hạng FC (24 tuổi).
 
Chương VI. Vận tải đường bộ, gồm 20 Điều
 
Chương này quy định về hoạt động vận tải đường bộ, kinh doanh vận tải bằng xe ôtô; quyền và nghĩa vụ của người kinh doanh vận tải, người lái xe và nhân viên phục vụ trên ôtô vận tải hành khách, hành khách, người thuê vận tải hàng hoá, người nhận hàng; vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng; vận chuyển động vật sống; vận chuyển hàng nguy hiểm; hoạt động vận tải đường bộ trong đô thị; vận tải đa phương thức; dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ; tổ chức, hoạt động của bến xe ôtô, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 đã phân biệt, làm rõ hoạt động vận tải đường bộ và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, do đó chia Chương này thành 2 Mục: Hoạt động vận tải đường bộ và Dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ. Quy định như vậy tạo thuận lợi cho công tác quản lý Nhà nước đối với hai loại hình dịch vụ này.
 
Luật cũng đã bổ sung quy định về quản lý hoạt động vận tải đường bộ, quy định chặt chẽ điều kiện kinh doanh vận tải bằng ôtô, đặc biệt quy định “phương tiện kinh doanh vận tải phải gắn thiết bị giám sát hành trình của xe theo quy định của Chính phủ”. Đây là quy định mang tính đột phá trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý hoạt động kinh doanh vận tải. Căn cứ điều luật này, Chính phủ sẽ có quy định cụ thể phạm vi, đối tượng, lộ trình thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế.
 
Không chỉ quy định chi tiết quyền, nghĩa vụ của từng đối tượng tham gia trong hoạt động vận tải đường bộ (người kinh doanh vận tải, người lái xe và nhân viên phục vụ trên ôtô vận tải hành khách, hành khách, người thuê vận tải, người nhận hàng), Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 còn quy định ràng buộc trách nhiệm của người kinh doanh vận tải "Chịu trách nhiệm về hậu quả mà người làm công, người đại diện gây ra do thực hiện yêu cầu của người kinh doanh vận tải trái quy định của Luật này".
 
Chương VII. Quản lý Nhà nước, gồm 4 Điều.
 
Chương này quy định nội dung quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ, trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ; thanh tra đường bộ; tuần tra, kiểm soát của cảnh sát giao thông đường bộ.
 
So với Luật năm 2001, Luật Giao thông Đường bộ năm 2008 bổ sung một số nội dung quản lý Nhà nước về vận tải đường bộ như việc quản lý hoạt động vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải, tổ chức cứu nạn giao thông đường bộ, đồng thời phân định rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước về giao thông đường bộ của các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan.
 
Luật cũng quy định bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra đường bộ để nâng cao vai trò, hiệu quả của lực lượng thanh tra, kịp thời ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật.
 
Điểm đáng chú ý trong Chương này quy định việc huy động các lực lượng cảnh sát khác và công an xã phối hợp với cảnh sát giao thông đường bộ tham gia tuần tra, kiểm soát trật tự an toàn giao thông đường bộ trong trường hợp cần thiết theo quy định của Chính phủ. Quy định này xuất phát từ yêu cầu thực tế, khi tình hình an toàn giao thông diễn biến phức tạp, lực lượng cảnh sát giao thông còn mỏng, yêu cầu bảo đảm giao thông thông suốt, an toàn đòi hỏi ngày càng cao, việc huy động các lực lượng khác tham gia hỗ trợ cảnh sát giao thông là cần thiết.
 
Với quan điểm đổi mới trong việc xây dựng luật, so với Luật năm 200l, Luật Giao thông Đường bộ đã bỏ chương khen thưởng, xử lý vi phạm, đồng thời bỏ một số diều đã được quy định cụ thể tại các Luật khác như quy định về quyền và nghĩa vụ của đối tượng thanh tra (đã được quy định tại Luật Thanh tra), quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện (đã được quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo).
 
Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 2 Điều.
 
Chương này quy định về hiệu lực thi hành của Luật.
xem thêm : dinh vi xe may, dinh vi oto, dinh vi xe hoi
[Continue reading...]
 
Copyright © . THIẾT BỊ ĐỊNH VỊ - Posts · Comments
Theme Template by BTDesigner · Powered by Blogger